3 ngành công nghiệp chính của Canada
Canada có GDP là 1,6 nghìn tỷ đô la, đứng thứ 10 trên danh nghĩa và thứ 15 theo PPP. Canada có tốc độ tăng trưởng GDP ước tính khoảng 0,5%, dự kiến sẽ tăng lên 2,2%. GDP bình quân đầu người năm 2014 là $56100, đứng thứ 10 trên danh nghĩa và thứ 9 theo PPP. Dịch vụ đóng góp 69,8% vào GDP, tiếp theo là công nghiệp ở mức 28,5% và nông nghiệp ở mức 1,7%. Canada có tỷ lệ thất nghiệp là 6,6%, lạm phát là 1% và 12,9% dân số sống dưới mức nghèo khổ.
Lực lượng lao động Canada ước tính là 19 triệu người. Lực lượng lao động theo ngành được ước tính như sau: dịch vụ chiếm 76%, chế tạo 13%, xây dựng 6%, nông nghiệp 2% và các ngành khác chiếm 3% lực lượng lao động. Canada có khoản nợ công $582 CAD, chiếm 33,8% GDP. Doanh thu ước tính khoảng 682,5 tỷ USD so với chi phí khoảng 750 tỷ USD. Canada có dự trữ ngoại hối ước tính 65,82 tỷ đô la và quyên góp ước tính 4,1 tỷ đô la.
Kinh tế Canada
Có ba ngành công nghiệp chính ở Canada bao gồm ngành dịch vụ, sản xuất và tài nguyên thiên nhiên. Khi các lĩnh vực này tăng trưởng và phát triển, nhu cầu về công nhân lành nghề và có trình độ đã trở thành một điều cần thiết.
Ngành dịch vụ chiếm ưu thế ở Canada sử dụng 3/4 dân số. Các ngành công nghiệp quan trọng khác bao gồm vận tải, gỗ, sản phẩm giấy, khoáng sản, khí đốt tự nhiên, sản phẩm cá và hóa chất. Đất nước này là một trong những nhà sản xuất khoáng sản tự nhiên hàng đầu như vàng, niken, nhôm và dầu thô. Canada có trữ lượng dầu lớn thứ hai trên thế giới.
Thông qua nhập cư, các ngành công nghiệp của Canada sử dụng rất nhiều lao động lành nghề và bán lành nghề được đào tạo ở nước ngoài. Làm việc và sinh sống tại Canada với tư cách là công nhân lành nghề hoặc bán lành nghề mang đến cho bạn cơ hội nộp đơn xin thường trú tại Canada. Điều này có nghĩa là bạn và gia đình sẽ sinh sống và định cư tại Canada.
Một số lĩnh vực việc làm lớn nhất ở Canada bao gồm:
Xây dựng: lao động thủ công và kỹ thuật
Với sự tăng trưởng mạnh mẽ trong lĩnh vực xây dựng nhà ở và thương mại, cũng như các công trình kỹ thuật, ngành xây dựng đã chứng kiến mức tăng lương hàng năm trung bình 3,4% từ năm 2010 đến năm 2015.
Hoạt động thuê mướn đã giảm phần nào trong 18 tháng qua, do các tòa nhà công nghiệp và thương mại chậm hơn, và nhu cầu hoạt động khoan ít hơn. Tuy nhiên, trong tương lai, các kỹ sư sẽ có nhu cầu lớn hơn nhờ sự gia tăng các dự án cơ sở hạ tầng công cộng.
Dịch vụ lưu trú và ăn uống: nhân viên nhà hàng, khách sạn
Việc tăng lương 2,4% hàng năm được cho là do đồng đô la yếu đã khiến nhiều người Canada đi nghỉ ở nhà hơn trong khi thu hút nhiều du khách nước ngoài hơn, do đó thúc đẩy ngành du lịch. Giá xăng thấp hơn cũng đã thúc đẩy chi tiêu của người tiêu dùng, mặc dù chi tiêu sẽ tiếp tục có xu hướng hướng tới các nhà hàng tự phục vụ so với các nhà hàng phục vụ đầy đủ.
Dịch vụ chuyên nghiệp, khoa học và kỹ thuật: Thiết kế CNTT, kế toán, pháp lý và quan hệ công chúng
Những ngành này có mức tăng lương trung bình là 2,1% và tăng trưởng việc làm vẫn mạnh mẽ trên tất cả các danh mục trong lĩnh vực này.
Nhân viên chăm sóc sức khỏe: bác sĩ, bác sĩ, Y tá và nhân viên chăm sóc tại nhà.
Biên chế trong lĩnh vực này đã tăng 2,1% hàng năm và dân số già của Canada sẽ tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng trên mức trung bình trong tương lai.
Các lĩnh vực như bán lẻ, sản xuất, khai thác mỏ, dầu khí và nông nghiệp đã hoạt động chậm hơn một chút vào cuối năm. Trong số này, chỉ có ngành khai thác mỏ, dầu khí được dự đoán là sẽ có sự gia tăng tuyển dụng trong năm tới trong bối cảnh hoạt động xuất khẩu và bình ổn giá hàng hóa ở mức khiêm tốn.
Những xu hướng tương tự cũng được thấy ở những người Canada tự làm chủ, nơi các ngành nghề xây dựng và định hướng công nghiệp đã có mức tăng trưởng cao nhất.
Cơ sở hạ tầng
Năm 2007, Kế hoạch Xây dựng Mới của Canada đã được thực hiện. Kế hoạch trị giá 33 tỷ đô la do chính phủ tài trợ này được dành riêng cho cơ sở hạ tầng công cộng, tỉnh, vùng lãnh thổ và thành phố. Các dự án hỗ trợ tăng trưởng việc làm, thịnh vượng và năng suất nằm trong số những dự án nhận được nhiều nhất những khoản tiền rất cần thiết này.
Kế hoạch đã được thiết lập để giảm thời gian đi lại cho các gia đình lao động, nâng cao năng suất kinh tế và tạo việc làm ở Canada. Kết nối Canada với thế giới là một ưu tiên của chính phủ, đó là lý do tại sao các dự án giao thông và kết nối được ưu tiên.
Những ngành này đang tuyển dụng và sẽ tiếp tục như vậy trong tương lai gần.
Mặt khác, nền kinh tế Canada cũng phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu và thương mại quốc tế. Hoa Kỳ là đối tác thương mại lớn nhất của Canada.
Canada kiếm được 523,904 tỷ đô la trong năm 2015 từ xuất khẩu. Các mặt hàng xuất khẩu chính bao gồm xe có động cơ và phụ tùng, máy móc công nghiệp, nhựa, máy bay, thiết bị viễn thông, hóa chất, phân bón, bột gỗ, gỗ, dầu thô, khí tự nhiên và nhôm. Các đối tác xuất khẩu chính gồm Mỹ 75,2%, Trung Quốc 4,10%, Nhật Bản 1,93%, Mexico 1,51%, Ấn Độ 0,86%, Hàn Quốc 0,81%.
Năm 1988, Canada ban hành thương mại tự do với Hoa Kỳ. Mexico đã trở thành đối tác vào năm 1994 trong Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) rộng lớn hơn, với hơn 444 triệu người và hơn 1 nghìn tỷ đô la thương mại hàng hóa vào năm 2008.
Tầm quan trọng của NAFTA đối với nền kinh tế Canada
Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) là một hiệp ước giữa Canada, Hoa Kỳ và Mexico đã loại bỏ hầu hết các rào cản đối với thương mại tự do giữa 3 quốc gia.
Thỏa thuận có nghĩa là mua một số mặt hàng từ các quốc gia NAFTA thường rẻ hơn so với mua hàng hóa tương tự từ các quốc gia không thuộc NAFTA. Nhờ NAFTA, việc thưởng thức bơ Mexico quanh năm thật dễ dàng. Tương tự như vậy, người Canada có thể tiết kiệm được nhiều tiền bằng cách mua một chiếc ô tô do Mỹ sản xuất so với một mẫu xe từ châu Âu. Hàng hóa từ các quốc gia NAFTA được nhập khẩu miễn thuế, dựa trên quy tắc xuất xứ của NAFTA. Các quy tắc này nêu rõ tỷ lệ phần trăm nội dung của sản phẩm phải có nguồn gốc từ quốc gia thành viên.
NAFTA là kết quả của 14 tháng đàm phán căng thẳng vào năm 1991 và 1992. Nó được cơ quan lập pháp Canada, Hoa Kỳ và Mexico phê chuẩn vào năm 1993 và có hiệu lực vào tháng 1 năm 1994. Trước NAFTA, Canada và Hoa Kỳ đã có một hiệp định thương mại được gọi là Hiệp định Canada - Hiệp định thương mại tự do Hoa Kỳ.
Dưới đây là 5 cách chính mà người Canada đã được hưởng lợi từ NAFTA:
Nhiều lựa chọn hàng hóa hơn
Khối lượng giao dịch tăng
Tăng đầu tư trực tiếp nước ngoài (đầu tư trực tiếp nước ngoài của Canada từ Hoa Kỳ tăng 243% từ năm 1993 đến 2013).
Di chuyển tự do hơn của các chuyên gia và nhà đầu tư qua biên giới
Sự phát triển của công việc mới
Những thách thức đối với nền kinh tế Canada
Canada phụ thuộc quá nhiều vào nguồn tài nguyên thiên nhiên được phân bổ không đồng đều dẫn đến sự tăng trưởng không đồng đều giữa các khu vực. Việc khai thác tài nguyên thiên nhiên đã có tác động xấu đến môi trường bao gồm sự suy giảm của cá tuyết và cá hồi cũng như độ che phủ của rừng.
Nhìn chung, đây là 3 thách thức chính mà nền kinh tế Canada phải đối mặt hiện tại và trong tương lai gần:
Giá Dầu
Giá dầu thấp là mối đe dọa lớn đối với nền kinh tế Canada:
Xuất khẩu dầu chiếm tỷ trọng lớn hơn trong GDP ở Canada so với bất kỳ quốc gia nào khác trong thế giới giàu có, ngoại trừ Na Uy hoặc các chế độ quân chủ vùng Vịnh Ả Rập. Trên thực tế, ngoài Canada, Na Uy hoặc Đan Mạch, mọi nền kinh tế phát triển đáng chú ý trên thế giới đều thực sự là nhà nhập khẩu ròng dầu mỏ. Ngược lại, Canada là nước xuất khẩu ròng dầu lớn thứ 10 thế giới và là nước xuất khẩu ròng dầu lớn thứ 5 thế giới bên ngoài Trung Đông.
Không có đối tác thương mại quan trọng nhất nào của Canada có khả năng nằm trong số những người hưởng lợi chính từ việc giá dầu giảm. Canada có một đối tác thương mại chính là Hoa Kỳ và ba đối tác thương mại thứ cấp là Trung Quốc, Mexico và Anh. Hoa Kỳ chiếm hơn một nửa thương mại của Canada, trong khi Trung Quốc, Mexico và Anh cộng lại chiếm gần 20% thương mại của Canada.
Tuy nhiên, không quốc gia nào trong số bốn quốc gia này là nhà nhập khẩu dầu mỏ hoặc năng lượng nói chung.
Hàng Hóa Khác
Giá dầu thường tương quan với giá hàng hóa nói chung, vì hàng hóa số lượng lớn có xu hướng cần nhiều năng lượng để sản xuất và nhiều nhiên liệu để vận chuyển. Điều này gây thêm rủi ro cho Canada, vì Canada không chỉ là nước xuất khẩu dầu lớn mà còn nhiều mặt hàng khác.
Các hàng hóa khác ngoài dầu chiếm khoảng 20-30% tổng xuất khẩu của Canada. Hầu hết các mặt hàng phi dầu mỏ quan trọng nhất của Canada có giá có xu hướng tương quan ít nhất phần nào với giá dầu. Chúng không chỉ bao gồm khí đốt tự nhiên và than đá mà còn cả các kim loại được sử dụng trong công nghiệp như niken, đồng và quặng sắt, cũng như các mặt hàng phi kim loại như kali (được sử dụng làm phân bón) và gỗ (ở châu Âu chiếm một nửa tổng năng lượng được sản xuất từ “ năng lượng tái tạo”), cả hai đều được Canada xuất khẩu lớn nhất thế giới. Canada cũng là nước xuất khẩu điện ròng lớn thứ ba thế giới, chỉ sau Pháp và Paraguay, và là nước sản xuất uranium lớn nhất thế giới ngoài Kazakhstan.
Trung Quốc
Mối quan hệ giữa Canada và Trung Quốc không chỉ dựa trên xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên của Canada sang Trung Quốc và nhập khẩu hàng hóa sản xuất của Trung Quốc sang Canada. British Columbia nói riêng có mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với Trung Quốc, kết quả của đường bờ biển Thái Bình Dương của Vancouver (và Victoria) và sự cô lập về mặt địa lý với hầu hết các thị trường còn lại của Canada và Bắc Mỹ.
Những mặt hàng xuất khẩu chính là (Vào năm 2021): Xỉ quặng và tro ($3,46 tỷ), Nhiên liệu khoáng, dầu, sản phẩm chưng cất ($3,04 tỷ), Bột gỗ, vật liệu xơ xenlulô, chất thải ($2,47 tỷ), Hạt có dầu, quả có dầu, ngũ cốc, hạt giống, trái cây ($1,92 tỷ) và Ngũ cốc ($1,53 tỷ).
British Columbia gửi khoảng 35 phần trăm hàng xuất khẩu ra nước ngoài của mình sang Trung Quốc, gần gấp đôi phần còn lại của Canada và 2,5 lần phần của Hoa Kỳ.
Một phần là kết quả của mối quan hệ xuyên Thái Bình Dương giữa British Columbia này, xuất khẩu của Canada sang Trung Quốc bằng khoảng 2,5% GDP của Canada, trong khi xuất khẩu của Hoa Kỳ sang Trung Quốc chỉ bằng 1,3 GDP của Hoa Kỳ. Ngoài ra, có những mối quan hệ xã hội và tài chính giữa Canada và Trung Quốc có ý nghĩa kinh tế đáng kể, mặc dù khó đo lường chính xác, phản ánh thực tế rằng khoảng 11 phần trăm dân số British Columbia và 5 phần trăm tổng dân số Canada là người gốc Hoa — so với chỉ 1,2% đối với dân số Hoa Kỳ, 0,3% đối với dân số Liên minh Châu Âu và 4% đối với dân số Úc.
Tất cả những điều này muốn nói rằng Canada sẽ cảm nhận được tác động của suy thoái kinh tế ở Trung Quốc, và không chỉ vì ảnh hưởng của sự suy thoái như vậy sẽ (và đã và đang xảy ra) đối với giá cả hàng hóa. Nền kinh tế Canada có thể bị ảnh hưởng đặc biệt bởi một cuộc khủng hoảng ở đông nam Trung Quốc, nếu một cuộc khủng hoảng xảy ra vì mối liên hệ lịch sử giữa Canada và Anh, hầu hết những người nhập cư Trung Quốc ở Canada đến từ Hồng Kông và các vùng lân cận của đông nam Trung Quốc (và nói đông nam Trung Quốc như tiếng Quảng Đông, mặc dù tiếng Quảng Đông chỉ được nói bởi khoảng 60 triệu người ở Trung Quốc, so với gần một tỷ người nói tiếng Quan Thoại).